Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

Habubank vượt nợ nần khắc phục thua lỗ


Habubank vượt nợ nần khắc phục thua lỗ


Cụ thể, việc sáp nhập với SHB sẽ giúp hai ngân hàng sáp nhập tiến tới trở thành một định chế tài chính vững mạnh và thương hiệu cũng mạnh hơn; Habubank sẽ không còn n nần.  hai ngân hàng sáp nhập có cơ hội để cùng điều hành một doanh nghiệp có quy mô lớn hơn và có sức cạnh tranh tốt hơn sau giai đoạn sáp nhập; mở rộng khả năng phát triển dịch vụ, đặc biệt là hoạt động bán lẻ do mạng lưới phân phối dịch vụ, thị phần lớn hơn; bổ sung lợi thế về quy mô trong phát triển kinh doanh, trong quản lý chi phí; những điểm mạnh của ngân hàng nhận sáp nhập sẽ hỗ trợ cho Habubank và ngược lại Habubank có nhiều điểm mạnh để hỗ trợ ngân hàng nhận sáp nhập.

Ngoài ra, còn nhận được sự hỗ trợ và quan tâm của Ngân hàng Nhà nước trong quá trình sáp nhập do việc sáp nhập nằm trong chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.

habubank nợ nần

Nếu tiến hành sáp nhập thành công, theo Habubank, kế hoạch này sẽ tạo ra một định chế tài chính có khả năng tồn tại và phát triển. Định chế này có vốn điều lệ khoảng gần 9.000 tỷ đồng và quy mô tổng tài sản trên 100.000 tỷ đồng, hoạt động khắp các tỉnh thành lớn trong cả nước; có số lượng khoảng 500.000 khách hàng; khoảng 5.000 nhân viên; có các công ty con, có khả năng cung cấp các hoạt động hỗ trợ, gia tăng lợi ích cho khách hàng và tăng thu nhập ngoài lãi cho ngân hàng; có địa bàn hoạt động trong khu vực Đông Dương với các chi nhánh tại Lào và Campuchia; có sự hậu thuẫn mạnh mẽ và có các khách hàng hoạt động trong những lĩnh vực cốt lõi cho sự phát triển của nền kinh tế như: than, khoáng sản, cây công nghiệp (cao su), phát triển hạ tầng và một lực lượng đông đảo các khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong các ngành kinh tế khác nhau; có khả năng cung cấp các dịch vụ hiệu quả và an toàn cho một khối lượng lớn các khách hàng cá nhân...

Thứ Tư, 8 tháng 8, 2012

Doanh nghiệp “quan ngại” lãi suất ngân hàng

Mặc dù Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có chỉ đạo các ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất khoản vay cũ xuống dưới 15%/năm từ ngày 15-7, tuy nhiên bên cạnh những ngân hàng thương mại quốc doanh đã thực hiện thì vẫn còn ngân hàng thương mại cổ phần chưa thực hiện một cách đầy đủ chính sách này.  
>> Mờ dần Habubank nợ xấu - Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông Habubank
http://www.habubank.com.vn/quan-he-nha-dau-tu/cac-thong-bao/201205/Nghi-quyet-dai-hoi-dong-co-dong-Habubank-1242100/
Lãi suất chưa được điều chỉnh giảm, hàng hóa tồn kho khiến Công ty cổ phần Clever gặp không ít khó khăn.
 Doanh nghiệp sợ “độ trễ”
Ông Nguyễn Văn Dinh, Giám đốc Công ty cổ phần Clever chuyên sản xuất gạch không nung trên địa bàn huyện Lạng Giang than phiền: “Đã hơn nửa tháng khi mà ý kiến chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực về việc điều chỉnh lãi suất món vay cũ về dưới 15%/năm nhưng phía ngân hàng vẫn chưa giảm đối với các khoản vay của chúng tôi. Do vậy doanh nghiệp đã khó khăn nay còn khó khăn hơn”. Được biết, doanh nghiệp của ông Dinh hiện đang dư nợ Ngân hàng VP Bank gần 6 tỷ đồng. Trước đây doanh nghiệp phải vay với mức lãi suất 19%/năm. Nếu được điều chỉnh sớm doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí đáng kể.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, không ít doanh nghiệp vẫn chưa được thụ hưởng chính sách này. Giám đốc một doanh nghiệp chuyên sản xuất cơ khí tại Lạng Giang bộc bạch: Có nhiều lý do để doanh nghiệp chưa dám lên tiếng về việc chậm điều chỉnh mức lãi suất về dưới 15%/năm.. Có thể doanh nghiệp vẫn đang còn nợ xấu tại ngân hàng hoặc doanh nghiệp muốn duy trì “mối quan hệ” với ngân hàng trong những lần giao dịch tín dụng tiếp theo nên đành “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Trao đổi với chúng tôi về việc chậm điều chỉnh lãi suất các khoản vay cũ, ông Hoàng Xuân Thái, Giám đốc VP Bank chi nhánh Bắc Giang cho biết, đơn vị đang phân hạn mức để điều chỉnh. Hiện nay, hơn 60% khách hàng có khoản vay cũ đã được điều chỉnh giảm lãi suất xuống 15%/năm với số dư nợ gần 100 tỷ đồng. Các khách hàng còn lại nằm trong diện điều chỉnh đơn vị sẽ tiếp tục thực hiện và hoàn thành vào tháng 9 tới.
Tại hội nghị gần đây nhất giữa lãnh đạo tỉnh, ngành chức năng và các doanh nghiệp, bà Tô Thị Hậu, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Bắc Giang đã thừa nhận “độ trễ” trong quá trình thực hiện chỉ đạo của Thống đốc. Cũng chính vì “độ trễ” này mà nhiều doanh nghiệp tỏ ra bất bình khi có ngân hàng đã điều chỉnh, có ngân hàng lại chưa hoặc không điều chỉnh lãi suất. Tại hội nghị này, bà Hậu có ý kiến sẽ tăng cường kiểm tra, giám sát trên cơ sở đó có biện pháp xử lý đối với các ngân hàng thương mại không thực hiện điều chỉnh lãi suất giảm đối với các khoản vay cũ từ 15/7. Dù vậy nhưng đến thời điểm này không ít doanh nghiệp vẫn chưa được thụ hưởng chính sách này và Công ty cổ phần Clever đã đề cập ở trên là một ví dụ.
Không phải tất cả các doanh nghiệp đều được ngân hàng giảm lãi suất các khoản vay cũ về 15%, nhưng những đơn vị được điều chỉnh lại lo lắng làm sao hấp thụ tốt vốn ngân hàng để vượt qua thời kỳ khốn khó này. Ông Hà Ngọc Hoa, Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Bắc Giang cho biết: Trong điều kiện sản xuất khó khăn như hiện nay, việc điều chỉnh lãi suất các khoản vay cũ xuống 15%/năm đã tạo điều kiện thuận lợi giúp doanh nghiệp tiết giảm chi phí đầu vào. Tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay, doanh nghiệp đang còn dư nợ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư- Phát triển (BIDV) chi nhánh Bắc Giang hơn 73 tỷ đồng, trong đó hơn 40 tỷ đồng vay với lãi suất từ 17 đến 19%/năm đã được điều chỉnh xuống 15% theo quy định. “Lãi suất các khoản vay cũ đã được điều chỉnh giảm nhưng doanh nghiệp vẫn còn không ít những khó khăn”- Ông Hoa cho hay. Cũng theo ông Hoa thì hiện nay ngoài số dư nợ đã được điều chỉnh xuống 15%/năm thì số còn lại đơn vị được vay mới với lãi suất ưu đãi 12%/năm. Như vậy, các khoản vay mới lãi suất đã giảm hơn 3%/năm so với khoản vay đã được điều chỉnh song doanh nghiệp vẫn phải tính toán phương án kinh doanh sao cho phù hợp để hấp thụ và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của ngân hàng.
Là một trong những khách hàng thường xuyên có giao dịch lớn tại BIDV chi nhánh Bắc Giang, được điều chỉnh lãi suất các khoản vay cũ xuống 15% bước đầu đã tháo gỡ khó khăn cho Công ty SNC (Khu Công nghiệp Đình Trám). Ông Nguyễn Trọng Trường, Phó Tổng Giám đốc Công ty cho biết:  khoản vay 47 tỷ đồng, lãi suất từ 16- 18% mà đơn vị vay trước đó nay đã được ngân hàng điều chỉnh xuống 15%. Với mức lãi suất giảm 2-3%/năm, doanh nghiệp không chỉ tiết giảm được một khoản chi phí đáng kể (ước chừng gần 1 tỷ đồng/năm) mà quan trọng hơn là tạo được tâm lý phấn chấn cho doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, cũng theo ông Trường hiện nay nhiều món vay mới của doanh nghiệp chỉ chịu lãi suất 12%/năm nên doanh nghiệp mong muốn phía ngân hàng tiếp tục có chính sách điều chỉnh giảm lãi suất cho vay tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển sản xuất.
Ngân hàng sẻ chia cùng doanh nghiệp
Thời gian gần đây hàng loạt những thông điệp về hạ lãi suất cho vay của Ngân hàng Nhà nước đã được phát ra, song không ít doanh nghiệp vẫn kêu ngân hàng chưa thông cảm với các khó khăn của họ. Tại cuộc gặp mặt gần đây nhất giữa lãnh đạo tỉnh Bắc Giang, ngành chức năng với các doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp cho rằng chính sách, chủ trương đã có đề nghị các ngân hàng thực hiện theo chỉ đạo. Nhiều ý kiến đề nghị Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn tín dụng của ngân hàng, đẩy nhanh việc giảm lãi suất cho vay phù hợp với mức giảm chỉ số giá tiêu dùng. Cụ thể, ưu tiên tín dụng đối với doanh nghiệp sản xuất trong các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp cơ khí, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. Có doanh nhân cho rằng, để mở rộng sản xuất và thay thế thiết bị cũ, các doanh nghiệp phải sử dụng một phần vốn vay ngân hàng. Nhưng đến nay, các ngân hàng mới chỉ điều chỉnh giảm lãi suất vay ngắn hạn, riêng lãi suất vay trung hạn vẫn ở mức cao. Do đó, Ngân hàng Nhà nước nên sớm xem xét giảm lãi suất vay trung hạn, có thể xuống dưới 12%/năm.
Doanh nghiệp mong muốn tiếp cận nguồn vốn ưu đãi của ngân hàng.
Xung quanh vấn đề lãi suất,  con đường "giải cứu" doanh nghiệp tiếp tục được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình thông báo tại Hội nghị Kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh vừa được tổ chức. Ðó là, nếu CPI năm nay giảm xuống dưới 7%, lãi suất huy động có điều kiện để tiếp tục giảm xuống dưới 8%. Theo đó, vào năm tới một số khoản cho vay ưu đãi có thể giảm xuống dưới 10%. Ngân hàng Nhà nước cam kết tiếp tục thực hiện các giải pháp hỗ trợ như duy trì ổn định cho vay tái cấp vốn lãi suất 10% cho các ngân hàng thương mại trong thời gian một năm; cấp đủ vốn cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và nông thôn; tăng cường giải quyết nợ đọng; kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc của doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng với lãi suất phù hợp...
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, bên cạnh chính sách hạ lãi suất cho vay, thì điều quan trọng để "giải cứu" doanh nghiệp lúc này là những biện pháp kích cầu hỗ trợ doanh nghiệp giải phóng lượng hàng tồn kho. Bởi thực chất, đây là một trong những gánh nặng gây nợ xấu. 
Ngọc Hân

Ngân hàng: Có lãi nhưng không có tiền

Nhiều ngân hàng báo lãi, nhưng lãi đó có phải là tiền hay không thì phải xem lại.
>> Mờ dần Habubank nợ xấu - Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông Habubank

http://www.habubank.com.vn/quan-he-nha-dau-tu/cac-thong-bao/201205/Nghi-quyet-dai-hoi-dong-co-dong-Habubank-1242100/
ảnh minh họa
Nợ xấu tăng cao, báo cáo tài chính quý II của các ngân hàng cũng không mấy đẹp. Lợi nhuận sau thuế của 8 ngân hàng niêm yết giảm tới 24% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy vậy, bức tranh lợi nhuận này đã phân chia thành 2 nhóm có tốc độ tăng lợi nhuận. Một nhóm là các ngân hàng như Vietcombank, VietinBank, ACB... có lợi nhuận quý II và lũy kế 2 quý giảm so với cùng kỳ năm ngoái. Và VietinBank giảm mạnh nhất: 69% so với quý I và 28,3% so với 6 tháng năm ngoái.
Ngược lại, nhóm ngân hàng tốp sau như SHB, Ngân hàng Quân đội, Sacombank hay Eximbank có lợi nhuận lũy kế 6 tháng tăng.
Dù lãi nhiều hay ít thì việc các ngân hàng vẫn kinh doanh có lãi trong lúc doanh nghiệp liên tục báo lỗ đã khiến dư luận có phần bức xúc, trách các ông chủ ngân hàng “ngồi mát ăn bát vàng”. Tuy nhiên, liệu ngân hàng có lãi thật hay không thì phải xem xét lại.
Ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chính sách Công, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, trong bài viết mới đây trên NCĐT đã phân tích, các ngân hàng có thể liên tục có doanh thu, liên tục tăng tổng tài sản, nhưng doanh thu và tài sản đó có phải là tiền không lại là chuyện khác. Trong khi đó, nợ xấu có thể được xử lý bằng cách đưa vào mục các tài sản khác trên bảng cân đối kế toán và thực chất sẽ chẳng có đồng tiền nào chạy về. Số liệu do ông tổng hợp từ 37 ngân hàng thương mại cho thấy giá trị các khoản phải thu liên quan tới cho vay và đầu tư tài chính là 148.000 tỉ đồng vào cuối năm 2011.
Báo cáo hợp nhất trong quý I và báo cáo riêng lẻ quý II cho thấy hầu hết các ngân hàng niêm yết đều có lưu chuyển tiền thuần âm, nghĩa là lượng tiền mặt ra nhiều hơn vào.
Dòng tiền thuần âm này gồm 3 loại: dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Hoạt động đầu tư và tài chính có thể dẫn đến dòng tiền âm là điều bình thường, nhưng dòng tiền từ hoạt động kinh doanh âm lại là điểm đáng chú ý. Đây cũng chính là bí ẩn dòng thứ 20 mà NCĐT từng đề cập đến.
Hầu hết các ngân hàng đều có tiền chảy ra nhiều hơn là vào trong quý I. Còn trong quý II, một số đã có cải thiện đáng kể, một số thì không. Và tính lũy kế thì nửa đầu năm 2012 dòng tiền này vẫn âm. Tại sao lượng tiền mặt ra vào ngân hàng lại giảm?
Hãy bắt đầu từ trường hợp lợi nhuận giảm mạnh nhất là VietinBank. Trong quý I các khoản nợ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước giảm đi, đồng thời tiền gửi của các tổ chức tín dụng và khách hàng đều ít đi. Sang đến quý II, lợi nhuận vẫn giảm nhưng thấp hơn.
Đây cũng là những nguyên nhân chính làm giảm lượng tiền vào ở nhiều ngân hàng niêm yết. Ngoài ra, sức hút của thị trường chứng khoán cũng khiến một số ngân hàng sẵn sàng bỏ tiền ra chơi với loại tài sản này. Vietcombank tăng gần 3 lần lượng tiền bỏ ra đầu tư kinh doanh chứng khoán. Tương tự, lượng tiền này của Navibank chiếm đến 50% dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh.
Vậy dòng tiền âm có nguy hiểm cho ngân hàng? Ngân hàng cũng chỉ là một doanh nghiệp và dòng tiền là một chỉ báo hết sức quan trọng. Minh họa gần đây nhất chính là Habubank. Ngân hàng này liên tục có dòng tiền từ hoạt động kinh doanh âm trong giai đoạn 2008-2011. Kết quả là ngân hàng này phải chịu sáp nhập, nương nhờ vào SHB.
Câu chuyện có lãi nhưng không có tiền vốn phổ biến ở các doanh nghiệp trong những năm qua giờ đây đã xuất hiện nhiều hơn ở khu vực ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt. Và liệu điều gì sẽ xảy ra khi những tổ chức có chức năng luân chuyển tiền ra nền kinh tế lại ở trong tình trạng thiếu tiền?

Thứ Hai, 6 tháng 8, 2012

CEO VietABank sang ABBank làm tổng giám đốc

Ông Đặng Quang Minh thôi chức từ hôm nay (7/8), nhiều khả năng ông Phạm Duy Hiếu - Tổng giám đốc VietABank sẽ là người lên thay.

>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật

Theo Ngân hàng cổ phần An Bình (ABBank), hôm nay (7/8), ông Đặng Quang Minh sẽ thôi giữ chức Tổng giám đốc nhà băng này. Người thay ông Minh làm tổng giám đốc có khả năng là ông Phạm Duy Hiếu, Tổng giám đốc ngân hàng TMCP Việt Á (VietABank) và hiện cũng là cố vấn tài chính của ABBank.
Tuy nhiên, việc bổ nhiệm tổng giám đốc mới của ABBank sẽ còn phải chờ sự xem xét và chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước.
Ông Phạm Quang Minh sinh năm 1972, là cử nhân đại học Tài chính kế toán Hà Nội, Thạc sĩ quản trị kinh doanh. Ông Minh đã có 19 kinh nghiệm trong lĩnh vực kế toán, tài chính, ngân hàng, trong đó có hơn 6 năm làm việc tại ABBank. Ông Minh mới được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc ABBank khoảng 1 năm, trước đó ông làm Phó Tổng giám đốc ABBank.
Trong khi đó, ông Phạm Duy Hiếu, người có khả năng trở thành Tổng giám đốc mới của ABBank sinh năm 1978, là thạc sỹ tài chính, lưu thông tiền tệ và tín dụng - Đại học Kinh tế quốc dân, Cử nhân Ngoại ngữ - Đại học Ngoại ngữ.
Ông Hiếu mới được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc VietABank đầu năm 2012, trước đó ông làm Phó tổng giám đốc phụ trách Khối khách hàng doanh nghiệp kiêm Giám đốc Sở giao dịch ABBank; Giám đốc điều hành văn phòng TPHCM - công ty cổ phần chứng khoán Vincom (nay là công ty cổ phần chứng khoán Xuân Thành).
Bên cạnh đó, hiện ABBank cũng còn 4 Phó tổng giám đốc là ông Nguyễn Công Cảnh (sinh năm 1958), ông Bùi Trung Kiên (sinh năm 1973), bà Nguyễn Thị Ngọc Mai (sinh năm 1974) và bà Phạm Thị Hiền (sinh năm 1973).
VOV

Mở tiệc linh đình tiễn Giám đốc chi nhánh Agribank về hưu

Tiệc tổ chức tại nhà hàng với 150 khách mời, kéo dài từ 9g-14g. Giám đốc ngân hàng còn gửi thư mời giống như một văn bản hành chính trước đó nhiều ngày. Trước cổng nhà hàng đặt bàn tiếp tân nhận quà, phong bì.

>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật

Ngày 5/8, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Châu Phú (An Giang) tổ chức tiệc liên hoan để trao quyết định nghỉ hưu cho giám đốc Ngô Thị Tuyết Nga.
Tiệc tổ chức tại nhà hàng tiệc cưới Thu Hồng (thị trấn Cái Dầu, huyện Châu Phú) với 150 khách mời, kéo dài từ 9g-14g. Đến dự có ban giám đốc Ngân hàng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh và chi nhánh ở các huyện thị khác, lãnh đạo UBND và một số cơ quan ban ngành huyện Châu Phú... cùng nhiều người thuộc thành phần kinh tế tư nhân ở địa phương.
Trước cổng nhà hàng đặt bàn tiếp tân nhận quà tặng, phong bì... của khách dự.
Từ nhiều ngày trước đó, Agribank Châu Phú đã gửi thư mời được trình bày giống như một văn bản hành chính do tân Giám đốc Võ Văn Dũng ký ngày 1/8.
Thư mời có đoạn viết: “Được sự chấp thuận của chi bộ, ban giám đốc, để tỏ lòng tri ân với những đóng góp của đồng chí Ngô Thị Tuyết Nga cho sự phát triển của chi nhánh và giữ vững thương hiệu Agribank, Ngân hàng Agribank huyện Châu Phú có tổ chức tiệc liên hoan trao quyết định nghỉ hưu cho đồng chí Nga...”.
Ông Lê Trọng Nghĩa - giám đốc Ngân hàng Nhà nước VN tỉnh An Giang - cho rằng việc công bố quyết định nghỉ hưu nên thực hiện ở cơ quan, sau đó chỉ mở tiệc gọn nhẹ mời một số đồng nghiệp cần thiết.
Còn ông Phạm Minh Trí, bí thư Đảng ủy khối doanh nghiệp tỉnh, cho rằng mở tiệc chia tay khi lãnh đạo đơn vị nghỉ hưu là điều cần thiết. Tuy nhiên với một cán bộ đảng viên thuộc đơn vị nhà nước thì cần tổ chức trang trọng, đơn giản sao cho có ý nghĩa, chỉ mời người trong cơ quan, ít đồng nghiệp dự. “Tổ chức tại nhà hàng đông khách mời, có khách bên ngoài và um sùm như vậy thì hơi quá đà” - ông Trí nói.
(Theo Tuổi trẻ)

Thứ Năm, 2 tháng 8, 2012

'Loạn' mô hình tổ chức các ngân hàng

Tái cấu trúc ngân hàng là một câu chuyện lớn và thực hiện trong quá trình kéo dài. Trong bài viết này, chỉ xin đề cập tới một vấn đề nhỏ là hệ thống tổ chức kinh doanh của các ngân hàng.
>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật

Đây được xem là một vấn đề tưởng như là hình thức nhưng liên quan sâu xa đến cơ cấu hoạt động, quyết định hiệu quả kinh doanh của mỗi ngân hàng
Chi nhánh, phòng giao dịch hay quỹ tiết kiệm?
Đặc thù lớn nhất của các ngân hàng: sự trải rộng của của các điểm giao dịch. Đây là đặc tính mà không có một doanh nghiệp (DN) nào khác có thể đạt phổ rộng về sự hiện diện về mặt điểm giao dịch như ngân hàng (NH). Và nó cũng kéo theo sự lập lờ về tổ chức của các ngân hàng
Thông thường, hệ thống của một ngân hàng thường bao gồm các cấp: hội sở chính;  Sở Giao dịch và các chi nhánh; các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm trực thuộc Sở Giao dịch,các chi nhánh.
Luật Các tổ chức tín dụng 2010 mới chỉ đề cập rằng các ngân hàng thương mại được phép thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện, các đơn vị sự nghiệp ở trong nước, chi nhánh, văn phòng đại diện, hay các hình thức hiện diện khác ở nước ngoài.
Ngân hàng Nhà nước cũng đã cố cho ra được thông tư quy định về mạng lưới hoạt động của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, đến nay, văn bản chính thức vẫn chưa được ban hành dù đã 2 lần xin ý kiến. Điều này chứng tỏ, việc quy định các đơn vị kinh doanh của ngân hàng thương mại không hề dễ dàng.
Điều này sẽ dẫn đến tình trạng lách luật và "lờ vờ" về mặt hoạt động. Hiện nay, nhiều ngân hàng thương mại đang lập lờ nhiều nhất là giữa mô hình "Quỹ tiết kiệm" và "Phòng Giao dịch". Theo quy định, quỹ tiết kiệm không được thực hiện nghiệp vụ cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế, khi nhìn cơ cấu tổ chức của phần lớn quỹ tiết kiệm thì đều thấy xuất hiện chức danh: chuyên viên quan hệ khách hàng. Đây bản chất là một dạng cán bộ tín dụng. Chuyên viên này thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ từ tư vấn, lập hồ sơ, thẩm định hồ sơ lần đầu. Cái khác duy nhất là người quản lý ký sẽ lãnh đạo chi nhánh mà quỹ tiết kiệm trực thuộc. Điều này sẽ nghiễm nhiên coi hoạt động tín dụng là của chi nhánh.
Hiện nay, nhiều ngân hàng thương mại đang lập lờ nhiều nhất là giữa mô hình "Quỹ tiết kiệm" và "Phòng Giao dịch"
Ngoài ra, các nghiệp vụ khác, quỹ tiết kiệm hoạt động hoàn toàn giống với các phòng giao dịch: nhận tiền gửi, chiết khấu giấy tờ có giá do tổ chức mình phát hành, thanh toán, phát hành thẻ... Trong hệ thống các chỉ tiêu doanh số được giao của một chuyên viên quan hệ khách hàng ở quỹ tiết kiệm, ở phòng giao dịch, ở chi nhánh hoàn toàn giống nhau: huy động phải đạt bao nhiêu tỷ, phải phát hành được bao nhiêu thẻ, phải giải ngân được bao nhiêu tiền... Sự khác nhau chỉ về mặt khối lượng. Điều này chứng tỏ, trên thực tế, các hoạt động nghiệp vụ của một quỹ tiết kiệm không hề kém một phòng giao dịch.
Bản thân nếu đặt ra câu hỏi "Sự khác biệt giữa quý tiết kiệm và phòng giao dịch" thì các nhân viên ngân hàng cũng khó mà trả lời được, bởi đơn giản, nghiệp vụ giống hệt nhau.
Câu hỏi sẽ đặt ra, Ngân hàng Nhà nước siết chặt điều kiện mở phòng giao dịch, nhưng lại không quá siết chặt việc mở quỹ tiết kiệm thì bản thân việc siết này không còn có ý nghĩa và đẩy các ngân hàng vào thế lách luật, và đã từng có phong trào mở quỹ tiết kiệm của các ngân hàng.
Một dạng tổ chức nữa mà chúng tôi quan sát được là dạng "Phòng giao dịch cấp chi nhánh". Ở đây, các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm thường chỉ dao động khoảng 4 đến 10 người. Chúng tôi có theo dõi và thấy một đặc trưng điển hình của phòng giao dịch: Giám đốc Phòng giao dịch: 1 người; 1 người là Phó Giám đốc hoặc Kiểm soát viên thường phụ trách công tác kế toán của chi nhánh, phê duyệt các giao dịch của giao dịch viên hàng ngày; 1-2 chuyên viên quan hệ khách hàng; 1-2 giao dịch viên; ngoài ra tùy ngân hàng có thể có nhân viên quỹ, chuyên viên hỗ trợ tín dụng... Đặc tính cơ bản: PGD không có nhân viên lái xe, không được cấp xe ôtô riêng.
Tuy nhiên, khi đứng trước cửa một phòng giao dịch của ngân hàng S, chúng tôi thấy được được có đầy đủ các phòng ban như một cấp chi nhánh: Phòng DVKH để tiến hành giao dịch hàng ngày, phòng khách hàng cá nhân, phòng khách hàng doanh nghiệp, phòng kế toán, rồi cả bộ phận hành chính, chuyên viên nhân sự, lái xe, có được hội sở cấp xe riêng... rất đầy đủ. Khi báo cáo số lượng nhân sự, các phòng giao dịch này sẽ có số lượng lớn hơn các phòng giao dịch khác. Từ đấy, chúng ta có quyền nghi ngờ về việc ngân hàng "lách" luật, tổ chức chi nhánh, nhưng chỉ đăng ký là Phòng Giao dịch.
Ngoài ra, khái niệm Sở Giao dịch cũng cần phải được luật hóa, được quy định chính thức phạm vi hoạt động để làm rõ chức năng của đơn vị này. Cụm từ "Sở Giao dịch" mới chỉ xuất hiện trong Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của Chính Phủ quy định về tổ chức của ngân hàng thương mại.
Trên thực tế, Sở Giao dịch có thể được gọi dưới các tên như Trung tâm Kinh doanh Hội sở, Trung tâm Giao dịch Hội Sở... có ngân hàng chỉ có 1 Sở Giao dịch, nhưng nhiều ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhà nước lại có cả Sở Giao dịch 2, Sở Giao dịch 3...  Và cũng trên thực tế, Sở Giao dịch bản chất cũng chỉ là một dạng chi nhánh.
Số lượng bao nhiêu thì đủ?
Các ngân hàng đang đua nhau mở thêm các điểm giao dịch. Và hiện tại, với các điểm giao dịch, máy ATM thì có thể nói, ngân hàng len lỏi đến cấp phố, hầu như con phố nào cũng có ít nhất một ngân hàng, to thì chi nhánh, bé thì quỹ tiết kiệm.
Ở đây, vô địch về việc mở điểm giao dịch phải kể đến các ngân hàng nhà nước (Agribank) và các ngân hàng do nhà nước chiếm cổ phần chi phối. Đơn cử, trên địa bàn quận Thanh Xuân, Agribank  có gần 20 điểm giao dịch (bao gồm cả Chi nhánh, Phòng Giao dịch), trong đó, có những tuyến đường như Nguyễn Trãi, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Quý Đức có từ 2 - 3 phòng giao dịch. Điều này chắc chắn không một ngân hàng thương mại cổ phần nào có được.
Các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước chiếm cổ phần chi phối khác như Vietinbank, BIDV đều có mức độ dày đặc các điểm giao dịch cũng chỉ kém tý chút như chi nhánh Vietinbank Chương Dương có tận 8 Phòng Giao dịch trên địa bàn quận Long Biên và cũng chỉ tập trung chủ yếu ở gần gần các khu vực đường Nguyễn Văn Cừ, Ngô Gia Tự, và Ngọc Lâm.
Các ngân hàng thương mại cổ phần khác tuy không "đạt được" độ một phố có thể có 2 phòng giao dịch, nhưng sự xuất hiện cũng dày đặc không kém như Techcombank, MaritimeBank...
Ngoài ra, theo lý thuyết thông thường, mỗi chi nhánh sẽ hoạt động kinh doanh ở một địa bàn cụ thể, và có thể mở các phòng giao dịch ở xung quanh đó phục vụ hoạt động kinh doanh của mình. Ví dụ, chi nhánh Long Biên của một ngân hàng thường đặt trụ sở chi nhánh trên địa bàn quận Long Biên, và mở thêm các phòng giao dịch,quỹ tiết kiệm trên địa bàn quận này để hoạt động.
Tuy nhiên không hẳn vậy, các chi nhánh của các ngân hàng có thể có các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm trực thuộc trên khắp thành phố. Điển hình như Chi nhánh Vietinbank Chương Dương có cả các phòng giao dịch ở tận nhiều quận trong thành phố. Và hiện tượng này không phải là hiếm và tồn tại ở nhiều ngân hàng.
Việc này đương nhiên  sẽ không gây ra rủi ro gì cho hoạt động của hệ thống, nhưng các ngân hàng cũng nên xem lại mạng lưới quy hoạch chi nhánh, phòng giao dịch của mình. Đặc biệt, đối với các ngân hàng có quá nhiều phòng giao dịch thì nên xử lý bởi các phòng giao dịch chưa chắc đã đem lại hiệu quả cao khi nó xuất hiện quá dày đặc, thậm chí, có thể dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong chính một hệ thống ngân hàng.

SHB: 6 tháng, ngân hàng mẹ lãi 590 tỷ đồng, tăng 44% so với cùng kỳ

Q2/2012 SHB được hoàn nhập 54 tỷ đồng dự phòng tín dụng. Tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm đạt 5,4%. Nợ xấu đạt 2,52%, tăng nhẹ so với đầu năm (2,3%).
>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật
Ngân hàng TMCP Sài gòn Hà Nội (mã SHB) công bố KQKD quý 2/2012 của ngân hàng mẹ. Theo đó:
· Thu nhập lãi thuần quý 2/2012 của SHB đạt 427 tỷ đồng, tăng nhẹ 4%. Lũy kế 6 tháng đạt 994,6 tỷ đồng, tăng 22% cùng kỳ 2011
· Hoạt động dịch vụ quý 2/2012 đạt gần 21 tỷ đồng, tăng 42%. Lũy kế 6 tháng đạt gần 88 tỷ đồng, gấp gần 3 lần cùng kỳ 2011
· Hoạt động kinh doanh ngoại hối quý 2/2012 đạt gần 20,5 tỷ đồng. 6 tháng đạt 32,4 tỷ đồng, giảm nhẹ 10% cùng kỳ 2011
· Hoạt động mua bán chứng khoán lỗ 3,5 tỷ đồng, 6 tháng lãi 968 triệu đồng
· Hoạt động khác tăng đột biến, quý 2/2012 đạt gần 88,7 tỷ đồng trong khi cùng kỳ 2011 chỉ đạt hơn 600 triệu đồng; lũy kế 6 tháng đạt 88,4 tỷ đồng
· Hoạt động góp vốn mua cổ phần quý 2/2012 chỉ lãi gần 250 triệu đồng, 6 tháng đạt 1,2 tỷ đồng, giảm 94% cùng kỳ 2011.

Do trong quý 2/2012 SHB được hoàn nhập 54,37 tỷ đồng dự phòng rủi ro tín dụng nên LNTT quý 2/2012 của SHB đạt 298 tỷ đồng, tăng 40% cùng kỳ 2011, 6 tháng đầu năm lãi trước thuế 592 tỷ đồng, tăng 44% cùng kỳ 2011.
LNST quý 2/2012 đạt 220 tỷ đồng, tăng 36% cùng kỳ 2011, lũy kế 6 tháng đạt 440 tỷ đồng, tăng 41% cùng kỳ 2011.
Tại thời điểm 30/6/2012, SHB có dư nợ cho vay đạt hơn 30.700 tỷ đồng, tăng 5,4% so với đầu năm. Nợ xấu đạt 2,52%, tăng nhẹ so với đầu năm (2,3%).

Cơ cấu nợ dưới chuẩn của SHB
Phương Mai

Theo TTVN

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

Dễ dàng du học Đức với tài khoản VietinBank

Với mạng lưới rộng khắp Việt Nam cùng 2 Chi nhánh tại CHLB Đức, Ngân hàng Công thương Việt Nam (VietinBank) là ngân hàng Việt Nam đầu tiên ra mắt sản phẩm tài khoản du học Đức với nhiều tiện ích vượt trội…
>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật 

Du học tại Đức: Thật đơn giản!
Các thủ tục xin cấp VISA để đi du học tại CHLB Đức là vấn đề được nhiều phụ huynh, học sinh, sinh viên đặc biệt quan tâm. Theo quy định của Đại sứ quán Đức, điều kiện bắt buộc để một sinh viên có thể nộp hồ sơ xin VISA du học tại Đức là cần có sự chứng minh về tài chính cho thời gian cư trú tại Đức. Cụ thể là mỗi sinh viên phải nộp kèm theo hồ sơ xin cấp VISA 01 Giấy chứng nhận số dư tài khoản tại một ngân hàng Đức với số tiền tối thiểu theo quy định của Đại sứ quán Đức trong từng thời kỳ. Đây phải là tài khoản phong tỏa (Sperrkonto) để mỗi tháng chỉ được rút một số tiền nhất định phục vụ chi tiêu.
Do đó, để có Giấy chứng nhận này, du học sinh Việt Nam hiện đang phải thực hiện  nhiều thủ tục mới có thể mở được tài khoản tại một Ngân hàng Đức: phải gửi hồ sơ qua đường bưu điện từ Việt Nam sang Đức để xin mở tài khoản, xác thực thông tin người mở tài khoản, mở tài khoản, rồi lại chuyển tiền từ Việt Nam sang Đức…tốn nhiều thời gian mới có thể hoàn tất đầy đủ thủ tục.
Là ngân hàng Việt Nam đầu tiên có mặt tại Đức với 2 chi nhánh tại Frankfurt và Berlin, VietinBank vừa chính thức ra mắt sản phẩm tài khoản du học Đức. Tài khoản này do VietinBank - Chi nhánh Đức mở cho công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài sinh sống và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam có nhu cầu xin cấp VISA để du học tại CHLB Đức. Đây là tài khoản tiền gửi thanh toán bằng EUR dưới hình thức tài khoản phong toả theo quy định. Sản phẩm này đã được Đại sứ quán Đức đánh giá cao, bởi nó sẽ hỗ trợ tích cực để các du học sinh Việt Nam đi du học tại Đức một cách dễ dàng.

Tiết kiệm chi phí, thời gian
Khách hàng có thể nộp hồ sơ và hoàn tất các thủ tục để mở tài khoản VietinBank Chi nhánh Đức tại bất kỳ Chi nhánh nào của VietinBank trên khắp 63 tỉnh, thành Việt Nam và được hướng dẫn đầy đủ, thực hiện xác thực thông tin người đề nghị mở tài khoản, hỗ trợ chuyển hồ sơ sang Đức để mở tài khoản. Từ đó, khách hàng được cấp Giấy xác nhận số dư tài khoản để hoàn tất thủ tục xin cấp VISA tại Đại sứ quán Đức.
Đặc biệt, thời gian thực hiện các thủ tục tại VietinBank rất nhanh chóng: khách hàng chỉ mất tối đa 2 ngày để mở tài khoản tại Đức và tối đa 2 ngày để chuyển tiền và xác nhận số dư tài khoản. Thực hiện các thủ tục ngay tại Việt Nam, khách hàng sẽ tiết kiệm được tối đa chi phí dịch vụ (mở tài khoản, chuyển tiền, phí bưu điện). Nếu không được Đại sứ quán chấp thuận cấp VISA du học, khách hàng sẽ nhanh chóng được đóng tài khoản và hỗ trợ chuyển tiền về Việt Nam trong vòng 1 tới 2 ngày.
Hồ sơ đăng ký mở tài khoản bao gồm: Hộ chiếu hiệu lực tối thiểu 6 tháng; Hộ khẩu hoặc Chứng minh nhân dân; Giấy báo nhập học hoặc Giấy chứng nhận đăng ký trước suất học tại một trường của Đức hoặc giấy chứng nhận (thông báo cuối cùng) của Cơ quan thẩm định hồ sơ xin học Đại học/Cao đẳng.
Hơn thế, VietinBank còn hỗ trợ cho vay chi phí du học (bao gồm khoản tiền chuyển sang Đức và các chi phí du học khác) với mức cho vay lên tới 70% tổng chi phí và thời gian cho vay tối đa bằng thời gian khóa học cộng thêm 3 năm. Ngoài ra, khách hàng còn được hỗ trợ cung ứng EUR, được phát hành thẻ ATM, được sử dụng Internet Banking, các dịch vụ trọn gói khác trong suốt quá trình du học.

Thuế nhập khẩu 10% với xe chở tiền

Theo Thông tư số 119/2012/TT-BTC, Bộ Tài chính bổ sung nhóm hàng Xe thiết kế chở tiền (Nhóm 98.23) vào Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục mặt hàng chịu thuế ban hành kèm theo Thông tư số 157. 
>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật 

Mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi dành cho nhóm hàng này là 10%.
Điều kiện để nhóm hàng này được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi là: Có xác nhận bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về đảm bảo tiêu chuẩn xe thiết kế chở tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định. Đối tượng sử dụng loại xe thiết kế chở tiền là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các đơn vị trực thuộc, các tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
Doanh nghiệp nhập khẩu xe thiết kế chở tiền khi nhập khẩu, ngoài các chứng từ quy định chung đối với hàng hoá nhập khẩu phải xuất trình cho cơ quan hải quan xác nhận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc đáp ứng tiêu chuẩn xe thiết kế chở tiền theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam...
Đối với các lô xe thiết kế chở tiền nhập khẩu từ ngày 1/8/2012 trở đi nếu đáp ứng các điều kiện về đối tượng sử dụng và có văn bản xác nhận của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về đảm bảo đủ điều kiện là xe thiết kế chở tiền được thực hiện phân loại và tính thuế nhập khẩu theo quy định tại Thông tư 119.
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 3/9/2012.

Tăng lên 9 triệu khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân

Người dân có thu nhập trên 9 triệu đồng/tháng trở lên mới phải nộp thuế thu nhập cá nhân, đồng thời, sẽ được giảm trừ tới 3,6 triệu đồng/tháng cho một người phụ thuộc. 
>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật 
Sẽ tăng mức giảm trừ gấp 1,25 lần so với hiện hành
Sau 3 tháng lấy ý kiến các bộ ngành, cơ quan, bản mới nhất dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thuế thu nhập cá nhân đã được Bộ Tài chính trình Chính phủ.
Điểm tích cực nhất là Bộ này đã tăng mạnh các mức giảm trừ gia cảnh, khởi điểm chịu thuế so với tính toán ban đầu trên cơ sở tiếp thu các ý kiến đóng góp.
Theo đó, mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế là 9 triệu đồng/tháng tương ứng trên 108 triệu đồng/năm, giảm trừ cho người phụ thuộc 3,6 triệu đồng/tháng/người tương ứng 43,2 triệu đồng/người/năm. Nói cách khác, mỗi người dân phải có thu nhập trên 9 triệu đồng/tháng mới là mức khởi điểm chịu thuế.
Các mức điều chỉnh trên cao gấp 1,25 lần so với mức hiện hành và tăng thêm 50% so với đề xuất ban đầu.
Trong khi đó, theo phương án ban đầu được công bố hồi tháng 3, Bộ Tài chính chỉ dự kiến tăng mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế (khởi điểm chịu thuế) lên 6 triệu đồng/tháng, tăng mức giảm trừ cho người phụ thuộc lên 2,4 triệu đồng/tháng. Nếu so với mức hiện hành là trên 4 triệu đồng/tháng khởi điểm chịu thuế và 1,6 triệu đồng/tháng giảm trừ cho một người phụ thuộc, các mức dự kiến ban đầu này chỉ tăng thêm 50%.
Thời điểm Luật sửa đổi có hiệu lực sẽ bắt đầu từ 1/1/2014.
Theo một nguồn tin cho biết, lý do mà Bộ Tài chính sửa mạnh các mức điều chỉnh trên là vì nguyên cớ sau khi lấy kiến các cơ quan, bộ ngành, tỷ lệ không ủng hộ phương án của bộ chiếm phần lớn. Các mức giảm trừ trên đều được cho là quá thấp, sẽ trở nên lạc hậu vào thời điểm 2 năm tới, khi luật mới đi vào cuộc sống.
Bộ Tài chính khi đó cho hay, nguyên tắc tính khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân là phải cao hơn mức thu nhập bình quân toàn xã hội tại thời điểm Luật có hiệu lực. Nguyên tắc này đảm bảo những người có mức thu nhập trung bình trở xuống chưa phải nộp thuế. Đối chiếu nguyên tắc này vào thực tế cuộc sống, hầu hết, các ý kiến người dân đều cho rằng, mức thu nhập 6 triệu đồng/tháng vào hiện tại năm 2012 còn chưa đủ sống, nhất là khu vực thành thị, nói gì tới năm 2014 mà còn phải nộp thuế.
Theo bài toán của Bộ Tài chính, 4 căn cứ làm cơ sở điều chỉnh thuế là mức tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân giai đoạn 2011-2015, biến động chỉ số giá tiêu dùng (CPI), Đề án cải cách tiền lương tối thiểu giai đoạn 2012-2013 và kết quả điều tra xã hội học của Tổng Cục thống kê về mức thu nhập và đời sống dân cư thực hiện vào năm 2010.
Tuy nhiên, tất cả các dự báo của Bộ Tài chính đều dựa trên kịch bản nền kinh tế phát triển bình thường, không lạm phát, không suy giảm, không có khủng hoảng xảy ra. Chưa kể, nhiều ý kiến chuyên gia cũng lo ngại, việc lấy kết quả điều tra mức sống dân cư từ năm 2010 để áp dụng cho năm 2014 thì giá trị thực tiễn, tính chính xác sẽ không còn nhiều.
Có thể thấy, phương án điều chỉnh mới về giảm trừ gia cảnh của Bộ Tài chính trùng với kiến nghị của Cục Thuế Tp HCM hồi đầu tháng 4.
Khi đó, Cục Thuế Tp HCM cho biết, Luật hiện hành đang tính mức khởi điểm chịu thuế bằng 6 lần lương tối thiểu khu vực hành chính sự nghiệp, gấp 2,5 lần mức GDP bình quân .
Áp dụng các tỷ lệ trên, căn cứ mức tăng lương tối thiểu thì mức khởi điểm chịu thuế trên 4 triệu đồng/tháng hiện hành sẽ tăng lên thành 9,9 triệu đồng/tháng vào năm 2014.
Nếu tính căn cứ vào GDP bình quân theo đầu người dự kiến 1.811-1.843 USD/năm/người vào năm 2014 thì mức khởi điểm chịu thuế đến năm 2014 sẽ tăng lên 8,9-9,1 triệu đồng/tháng.
Lại tiếp tục giữ nguyên biểu thuế 7 bậc
Ngoài ra, dự thảo mới nhất của Bộ Tài chính đã quyết định không sửa Biểu thuế lũy tiến từng phần như dự thảo ban đầu.
Theo đó, Bộ Tài chính vẫn giữ nguyên cách tính thuế chia làm 7 bậc như luật hiện hành.
Trong đó, bậc 1 là thu nhập chịu thuế đến 5 triệu đồng/tháng có mức thuế 5%. Bậc 2 có thu nhập từ 5-10 triệu đồng/tháng nộp thuế 10%, bậc 3 thu nhập từ 10-18 triệu nộp thuế suất 15%, bậc 4 thu nhập từ 18-32 triệu đồng/tháng nộp thuế suất 20%, bậc 5 có thu nhập từ 32- 52 triệu đồng/tháng nộp thuế suất 25%, bậc 6 có thu nhập từ 52-80 triệu đồng/tháng thì nộp thuế suất 30%.
Bậc 7, thu nhập chịu thuế từ 80 triệu đồng/tháng trở lên sẽ phải nộp thuế suất 35%.
Biểu Thuế Thu nhập cá nhân hiện hành
Bậc thuế

Phần thu nhập tính thuế/tháng
(trđ)
Thuế suất (%)
1

Đến 5
5
2

Trên 5 đến 10
10
3

Trên 10 đến 18
15
4

Trên 18 đến 32
20
5

Trên 32 đến 52
25
6

Trên 52 đến 80
30
7

Trên 80
35
Trong khi trước đó, dự thảo ban đầu đã đưa ra phương án giảm biểu thuế lũy tiến xuống 6 bậc và bỏ thuế suất 35%. Trong đó, bậc 6 là giới hạn thu nhập chịu thuế từ 52 triệu trở lên nộp thuế suất 30%.
Lý giải của Bộ Tài chính khi đó cho rằng, thuế suất 35% là quá cao, không khuyến khích người có trình độ kỹ thuật cao, năng lực điều hành giỏi ra sức lao động và sẽ khó thu hút các nhà quản lý, nhà khoa học, nhân lực, lao động có tay nghề cao ở nước ngoài vào Việt Nam làm việc. Hơn nữa, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng đang có lộ trình giảm dần, từ mức 25% hiện nay xuống 22-23% vào năm 2015 và 20% vào năm 2020. Do vậy, bỏ thuế suất 35% thuế thu nhập cá nhân là nhằm tương ứng với Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tuy nhiên, các ý kiến phản biện từ Hiệp hội Tư vấn Thuế cho rằng, để khuyến khích người dân nộp thuế thì cần hạ mức thuế suất bậc 1 xuống còn 2-3% thay vì 5%. Ngoài ra, khoảng cách thu nhập giữa các bậ thuế cần giãn ra như bậc 1 có thể từ 0-15 triệu đồng/tháng thay vì chỉ 5 triệu đồng/tháng như hiện nay.

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

Ngân hàng đang “xơi” 6% chênh lệch lãi suất?

Sau khi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước định hướng lãi suất tiền vay ngắn hạn giảm về 15%/năm đã xuất hiện nhiều ý kiến cho rằng, cần phải giảm lãi tiền vay ngắn hạn xuống 8%/năm, trung dài hạn 12%/năm.
>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật
 
Trong bối cảnh hiện nay, mong muốn này có trở thành hiện thực?

Định hướng lãi vay 15%/năm, trong khi lãi tiền gửi chỉ 9%/năm của Ngân hàng Nhà nước đang dấy lên khúc mắc: ngân hàng đang “xơi” 6%/năm, trong khi doanh nghiệp phá sản hàng loạt. Thực hư con số này như thế nào?

Ngân hàng đang “xơi” 6%?

Theo phân tích của một chuyên gia ngân hàng, giả định trong số 100 đồng mà tổ chức tín dụng huy động kỳ hạn dưới 12 tháng, lãi suất 9%/năm thì theo Quyết định số 581/2003/QĐ-NHNN ngày 9/6/2003, mức trích lập dự phòng rủi ro VND kỳ hạn này phải là 3%; dự trữ thanh khoản 10%, còn 87%, hay 87 đồng.

Như thế, lãi suất thực của một đồng vốn huy động để cho vay ra chưa tính các chi phí khác là: 9% : 87% = 10,34% (1) và một khoản khác mà tổ chức tín dụng phải chi là dự phòng chung 0,75% trên mỗi đồng vốn huy động (2). Lấy (1) + (2), sẽ bằng 11,09%.

Ngoài ra, tổ chức tín dụng còn phải chi một loạt chi phí như: khấu hao tài sản đầu tư, thiết kế sản phẩm tiền gửi, thuê phòng giao dịch, đường truyền mạng, thông tin liên lạc, quảng bá sản phẩm... tiền lương, đều phải tính vào giá vốn và được phân bổ vào trong đó dù co kéo đến mấy thì khoản này cũng tương đương 1% đối với mỗi đồng vốn huy động được.

Tóm lại, chi phí thực tế trên mỗi đồng vốn mà tổ chức tín dụng huy động được lên tới 12,09% và so với lãi vay bị Ngân hàng Nhà nước “định hướng” là 15%/năm thì phần chênh lệch thực tế giữa huy động và cho vay mà ngân hàng thương mại giữ lại, tất nhiên chưa tính thuế thu nhập doanh nghiệp là 2,91% chứ không phải 6% như nhiều người vẫn đề cập.

So với các loại hình đầu tư khác, tỷ suất sinh lời trên một đồng vốn/năm chưa tính thuế thu nhập doanh nghiệp mà chỉ ở mức 2,91% là quá thấp.

Thứ hai, thêm một yếu tố không thể không tính đến là các khoản tiền gửi trước đây có kỳ hạn 3 - 4 tháng đã thỏa thuận lãi suất phải trả khách hàng là 12% - 13% - 14%/năm thì kể cả khi Ngân hàng Nhà nước áp trần lãi suất tiền gửi 9% thì ngân hàng thương mại cũng không thể điều chỉnh ngay xuống mức này.

Bởi lẽ, không một khách hàng nào chấp thuận yêu cầu đó, nhất là trong điều kiện khát vốn như thời gian qua, những khách hàng nắm giữ tiền tỷ trở lên thường xuyên so đo, mặc cả từng đồng với ngân hàng. Do vậy, ngân hàng thương mại vẫn phải trả lãi khoản tiền gửi đó như đã cam kết trong hợp đồng, sau đó mới có thể điều chỉnh giảm lãi theo yêu cầu hiện nay của Ngân hàng Nhà nước.

Chưa kể, trong hầu hết các hợp đồng tiền gửi hiện nay đều có kỳ hạn từ 1 - 3 tháng với lãi suất đầu vào bình quân trên 11% - 13%/năm, thậm chí có nhiều món lên tới 15%/năm, nhất là những ngân hàng yếu thanh khoản. Vậy nên, so với mức trần lãi suất tiền vay ngắn hạn 15%/năm, không gian để ngân hàng thương mại cân đối lời lãi là chật hẹp.

Thứ ba, ngoài các thành tố liên quan đến chi phí vốn như nói trên, trong quá trình hoạt động, mỗi một khoản tín dụng bắt đầu từ nhóm 2 đến 3,4,5 đều phải trích lập theo quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro của Ngân hàng Nhà nước.

Như vậy, đủ thấy những ngày này, ngân hàng thương mại đang phải co kéo từng đồng để vừa duy trì hoạt động, vừa đạt chỉ tiêu lợi nhuận mà Hội đồng Quản trị đã ra nghị quyết cũng như giảm lãi suất tiền vay để chia sẻ khó khăn cùng doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh nợ xấu toàn hệ thống đang ở mức rất cao.

Cơ hội của sàng lọc

Bà Nguyễn Thị Thanh Hương, nguyên Phó vụ trưởng Vụ Kế toán Ngân hàng Nhà nước phân tích, nếu đặt câu chuyện giảm lãi suất trong các mối liên hệ với thị trường vốn sẽ thấy một vấn đề hết sức đáng lo ngại. Thị trường vốn Việt Nam hiện rất chông chênh do toàn bộ gánh nặng đều đổ dồn lên hệ thống ngân hàng.

Trước hết, do ngân hàng gánh vác toàn bộ chức năng thị trường vốn nên phần lớn các doanh nghiệp có hệ số tự tài trợ vốn quá thấp và không chịu nổi mỗi khi lạm phát bùng phát, Ngân hàng Nhà nước phải thắt chặt tiền tệ như từng diễn ra khá nhiều lần kể từ 2008 đến nay.

Điều này trái ngược hoàn toàn so với hệ thống ngân hàng các nước phát triển. Ở đó, không bao giờ ngân hàng cho vay doanh nghiệp khi mà hệ số tự tài trợ quá thấp như ở Việt Nam. Các quốc gia này xếp hạng doanh nghiệp rất cụ thể, rõ ràng và mức tài trợ cũng tương thích với sự xếp hạng đó theo nguyên lý: rủi ro càng cao thì lãi suất phải cao.

Hai là, nhiều năm gần đây, việc cấp phép thành lập doanh nghiệp quá dễ dãi, thiếu sự cân nhắc đã tạo ra sự tăng trưởng số lượng doanh nghiệp quá lớn trong một thời gian không dài, trong khi số doanh nghiệp có thực lực tài chính tốt không nhiều. Rất nhiều doanh nghiệp vốn tự có chỉ vài chục triệu nhưng vẫn cứ thành lập và khai vống vốn điều lệ lên, sau đó, tìm mọi cách chạy dự án và vay mượn ngân hàng hoặc bên ngoài.

Một bằng chứng là trên cả nước có bao nhiêu doanh nghiệp được xếp hạng tín nhiệm cao? Thực tế cho thấy, nền kinh tế Việt Nam vẫn bị S&P xếp hạng ở mức đầu cơ, vào nhanh và rút thật nhanh thay vì cần có nhiều dự án đầu tư dài hạn hơn nữa.

Các doanh nghiệp Việt Nam ra sàn xếp hạng quốc tế vẫn bị xếp hạng thấp hơn hoặc ngang bằng xếp hạng quốc gia. Ngay cả những doanh nghiệp lớn của Việt Nam như Vincom hay Vietinbank khi phát hành trái phiếu quốc tế đều phải chịu lãi suất rất cao.

Cụ thể, theo bản tin nghiên cứu thị trường của BIDV thì từ đầu năm đến nay, lãi suất trái phiếu quốc tế của Vietinbank lên tới 8,25%/năm trong khi lãi suất USD trong nước khoảng 5%/năm; hay, ba đợt phát hành trái phiếu quốc tế của Vincom (gồm185 triệu USD, 115 triệu USD và trái phiếu chuyển đổi kỳ hạn 5 năm) lãi suất lên tới 11%/năm.

Nhưng, trước tình trạng doanh nghiệp phá sản hàng loạt hiện nay thì thái độ ứng xử của nhà nước phải như thế nào? Bà Hương cho rằng, với tình hình kinh tế thế giới như hiện nay, kinh tế Việt Nam vẫn chưa bộc lộ hết mức đáy. Và đây là điều kiện tốt nhất để tái cơ cấu và sàng lọc doanh nghiệp.

Theo đó, các bộ ngành quản lý cần phân loại doanh nghiệp theo 3 cấp độ: ngoài những doanh nghiệp tốt mà các ngân hàng đang tìm mọi cách giữ chân họ thì với những doanh nghiệp có triển vọng vượt qua khó khăn, nếu có phương án/dự án kinh doanh khả thi thì ngân hàng nên bơm vốn. Ngược lại, những doanh nghiệp đã phá sản và nguy cơ phá sản cận kề thì phải giải quyết cho phá sản.

Theo Nguyễn Hoài
VNeconomy

Đến lượt khối ngân hàng thấm đòn?

Trước đây, trong khi tình hình kinh doanh của doanh nghiệp bi đát, do lãi suất đi vay cao thì các ngân hàng thương mại (NHTM) vẫn lãi cao.
>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật

Nhưng quý 2/2012, lợi nhuận của một loạt ngân hàng bắt đầu giảm mạnh do phải trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu.

Vietinbank, Vietcombank trong quý 2/2012 đã ghi nhận tới 3.900 tỉ đồng nợ có khả năng mất vốn; con số này của Vietinbank là 2.254 tỉ đồng, tăng mạnh so với con số đầu năm.

Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM được công bố đều tăng so với cuối năm 2011. Tuy nhiên, nhiều khả năng đây vẫn chưa phải các con số cuối cùng do sự linh hoạt trong cách phân loại nợ, nên các NHTM theo cách hạch toán của riêng mình có thể vẫn có nhiều khoản nợ chưa chuyển thành nợ quá hạn và nợ có khả năng mất vốn.
Nếu tỷ lệ nợ xấu tiếp tục tăng cao thì lợi nhuận của các NHTM trong sáu tháng cuối năm sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. Trong sáu tháng đầu năm 2012, NHNN liên tiếp hạ trần lãi suất huy động, song trần lãi suất cho vay lại thả nổi và không có chỉ đạo. Do vậy, nhiều NHTM vẫn có được lợi nhuận đáng kể nhờ sự chênh lệch này.

Tuy nhiên, hiện tại NHNN đã chỉ đạo lãi suất cho vay về dưới 15%/năm, và ngay cả các khoản cho vay cũ cũng điều chỉnh lãi suất cho vay xuống 15%. Đặc biệt vì tình hình nợ xấu tăng cao, nhiều NHTM chủ động hạ lãi suất cho vay để thu hút khách hàng vay vốn có chất lượng.
Thêm vào đó, một yếu tố lớn có thể ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM chính là các khoản lãi và phí phải thu có thể chưa thu được do các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, không trả được gốc và lãi. Mặc dù so với quý 4/2011, các khoản lãi và phí phải thu quý 2/2012 đã giảm khoảng -0,17%. Nhưng đây thuần tuý là vấn đề chu kỳ, vì thông thường trong các tháng cuối năm thanh khoản tiền mặt của doanh nghiệp căng thẳng hơn, khiến cho các NHTM chấp nhận cho các doanh nghiệp trả lãi và phí chậm.
Nếu so với cùng kỳ quý 2/2011 thì giá trị các khoản lãi và phí phải thu tăng tới 25,59%. Và quan trọng hơn, các tỷ lệ “lãi và phí phải thu trên thu nhập từ lãi” cũng như “lãi và phí phải thu trên thu nhập lãi thuần” cũng đều tăng lên. Điều này có nghĩa là nhiều khoản lãi phải thu mà các NHTM có thể rất khó thu được, cũng đã được các NHTM hạch toán vào thu nhập từ lãi để làm tăng lợi nhuận trong quý 2 vừa rồi.

Theo Nguyên Minh Cường
SGTT